Lực lượng hai phía Chiến_tranh_Pháp-Phổ

Đây là một câu chuyện đáng buồn về sự vớ vẩn, vụng về và vô dụng của Pháp trước óc tinh khôn, sự hiệu quả và tính không đắn đo của Phổ.
— Tác giả Marshal Dill trong cuốn Germany: a modern history[35]

Quân đội Pháp

Sau chiến thắng chớp nhoáng của quân Phổ trong cuộc chiến tranh với Đế quốc Áo năm 1866, Thống chế Adolphe Niel, bộ trưởng Bộ chiến tranh của Pháp, quyết định tiến hành một chương trình tái cơ cấu để tăng cường sức mạnh binh lính. Ông hủy bỏ tất cả những ưu đãi dành cho các cựu binh tái nhập ngũ, với kết quả tai hại - một số lớn cựu binh rời bỏ quân đội, cùng với một số đáng kể (lên tới một phần tư) quân dự bị tìm cách hối lộ để trốn quân dịch. Luật Quân sự năm 1868, được soạn bởi Thống chế Niel theo mẫu của Phổ, tăng thời gian tại ngũ từ 7 lên 9 năm. Tuy nhiên, Quốc hội Pháp chỉ cấp một số kinh phí rất nhỏ để hỗ trợ cho chương trình Vệ binh Cơ động, và ban hành một số quy định làm giới hạn nghiêm trọng chương trình huấn luyện của các đơn vị này. Họ bị cấm không được đi khỏi địa phương của mình, và không bị buộc phải ở lại doanh trại trong thời gian huấn luyện[69].

Quân Pháp tới tháng 7 năm 1870 bao gồm 492 585 quân chính quy, một số là những binh lính dày dặn kinh nghiệm chiến trận từ các cuộc chiến trước đó như Chiến tranh Krym, Chiến tranh xâm lược xứ Algérie (Bắc Phi), Chiến tranh giành độc lập Ý, và cuộc can thiệp của Pháp vào México (Bắc Mỹ). Trong số đó, có 300.000 quân sẵn sàng tham chiến trong vòng 3 tuần, theo như tân Bộ trưởng Bộ chiến tranh, Thống chế Edmond Le Bœuf (Thống chế Niel mất vào năm trước đó). Số này sẽ tăng lên đến 662.000 quân trong trường hợp tổng động viên quân dự bị, cộng thêm chừng 417.366 quân trong các đội Vệ binh Cơ động - Garde Mobile, với tổ chức lỏng lẻo và cần thêm thời gian để huấn luyện[7].

Quân Kỵ binh Pháp theo dõi tù binh Bayern, qua nét vẽ của nhà họa sĩ Édouard Detaille.

Sau khi nhận được báo cáo về sự hiệu quả của loại súng trường đạn nạp hậu mà Phổ sử dụng trong cuộc chiến tranh 1866, người Pháp vội trang bị cho bộ binh của mình súng trường hiệu Chassepot, một trong số những vũ khí hiện đại nhất thế giới được sản xuất hàng loạt khi đó. Loại súng trường này sử dụng vòng đệm cao su, với đạn có kích thước nhỏ hơn, tầm bắn 1600 thước (hay 1463 mét), tốc độ bắn nhanh hơn.[70] Thêm vào đó, quân Pháp còn được trang bị "tiền thân" của súng máy – súng mitrailleuse. Loại súng này được bí mật sản xuất từ năm 1866, với 25 nòng súng, vận hành bởi một vòng quay tay, có khả năng bắn ra 150 viên đạn một phút với tầm bắn 2.000 thước (1.829 mét). Mặc dù mẫu thiết kế này mang tính đột phá và có khả năng tiềm tàng to lớn, nó vẫn không phát huy được hiệu quả do binh lính không được huấn luyện sử dụng đầy đủ, được bố trí trong đội hình quá chật hẹp, và bắn ra ở khoảng cách quá xa nên độ chính xác rất thấp[71].

Pháo binh Pháp không thể tiến hành tái trang bị vì Nghị viện không bỏ phiếu cấp tiền, và kết quả là bao gồm ba loại cỡ nòng cơ bản: bốn bảng, 12 bảng và súng mitrailleuse. Loại pháo nòng bốn bảng có tầm bắn 1 300 thước (1 189 mét) ở tầm ngắn, và khoảng 2.500 thước (2 286 mét) ở tầm xa, trong khi loại cỡ nòng 12 bảng (đều là đạn nạp tiền) được dùng cho các cuộc bắn phá tầm xa hơn[72]. Dân chúng Pháp đến dự Triển lãm thế giới 1867 tại Paris xem loại đại bác khổng lồ Krupp của Đức, nhưng đa phần đều tỏ ra bàng quan, vì cho rằng loại đại bác này quá cồng kềnh và tốn kém, nên không thực tiễn, hoặc cho rằng chiến tranh là chuyện không liên quan gì đến tiến bộ khoa học công nghệ[73]. Đầu năm 1868, các chuyên gia vũ khí Pháp chứng kiến sự ưu việt của pháo nạp hậu Krupp trong cuộc trình diễn tại Bỉ. Mặc dù nhận được sự hậu thuẫn tích cực của họ, nhưng Thống chế Le Bœuf vẫn viết "Rien à faire" (Không có gì để làm) trong đơn đặt hàng với Krupp và việc này bị xếp lại. Mãi đến sau chiến tranh, người ta mới phát hiện ra là ông ta và phe cánh tìm cách bảo hộ hãng Schneider của Pháp khỏi sự cạnh tranh[74].

Trên danh nghĩa, quân đội do Hoàng đế Napoléon III chỉ huy. Thống chế Bazaine, MacMahonCanrobert ban đầu được chọn để chỉ huy các quân đoàn. Họ cũng như các sĩ quan tùy tùng vốn giành được nhiều vinh quang do sự anh dũng và tài chỉ huy trong các cuộc chiến tranh Crimea, chiến tranh Pháp-Áo và nhiều cuộc chiến tranh thuộc địa khác[75].

Trên thực tế, quân đội Pháp dù đã tiến hành các cải cách khẩn cấp vì kết quả cuộc Chiến tranh Áo – Phổ, vẫn bị tê liệt bởi sự điều hành yếu kém và việc lên kế hoạch thiếu rõ ràng. Dù bộ trưởng Le Bœuf tuyên bố Quân đội Pháp đã sẵn sàng "tới chiếc đinh giày cuối cùng", khi chiến sự nổ ra, nhiều đơn vị vẫn còn thiếu quân vì quân dự bị còn sống vất vưởng tại các khu tuyển quân và nhà ga vì họ vẫn còn phải loay hoay tìm trung đoàn của họ. Trong số rất nhiều trang bị và quân nhu bị thiếu, phải kể đến phần lớn thuốc men tiếp tế vẫn còn nằm lại tại Điện Invalides ở Paris, chờ được vận chuyển[76]. Trong suốt cuộc chiến, sự hành quân của các đơn vị quân Pháp được tiến hành rất dở và hỗn độn.

Quân đội Phổ

Pháo binh Phổ chế tạo bởi hãng Krupp, 1870

Tổ chức quân đội Phổ được hoàn toàn biến đổi nhờ công sức của Đại tướng Albrecht von Roon và nhà Vua Wilhelm I của Phổ trong khoảng năm 1858 và về sau. Vua Wilhelm I, vốn đã được thưởng Thập tự Sắt nhờ công lao trong cuộc chiến đấu chống Napoléon I hồi năm 1814, xem việc thống suất ba quân là trách nhiệm của mình.[77] Đại tướng Roon xem lực lượng Quân đội Phổ và những giá trị to lớn của nó là trung tâm trong việc thúc đẩy tinh thần dân tộc, nên đã khẩn trương xây dựng lực lượng Quân đội hùng hậu trong đó lực lượng Dân binh Landwehr nắm dưới quân quyền.[78] Sau khi cải cách được tiến hành, Quân đội Phổ bao gồm toàn lính quân dịch và quân dự bị[79]. Nghĩa vụ quân sự trở thành bắt buộc cho tất cả đàn ông trong độ tuổi quân dịch, và do đó Phổ và đồng minh miền Nam và Bắc Đức có thể huy động đến 1,2 triệu quân nếu chiến tranh nổ ra[80], trong vòng chỉ vài ngày. Quân Phổ có ưu thế tuyệt đối về sự cơ động người cũng như vật tư chiến tranh, và không vấp phải cơn ác mộng về tiếp liệu làm vướng chân quân Pháp[81]. Đôi khi người ta miêu tả các chiến sĩ Phổ hùng mạnh như "một đoàn quân có quốc gia".[22] Chính sách quân sự của Đại tướng Roon đã tạo tiền đề cho sách lược chính trị của Bismarck đánh bại các đối thủ theo chủ nghĩa tự do của ông vào năm 1863.[78]

Quân đội vẫn trang bị loại súng trường nạp hậu Dreyse nổi tiếng sau trận Königgrätz, nhưng tới lúc này không còn hữu hiệu so với súng trường Chassepot của Pháp. Tầm bắn súng Dreyse ngắn hơn tầm bắn của súng Chassepot, nghĩa là bộ binh Phổ phải vượt qua lưới lửa của quân Pháp trước khi có thể nổ súng vào quân Pháp. Tổng tham mưu trưởng Quân đội Phổ, là Đại tướng – Bá tước Helmuth von Moltke, có lẽ không duy trì việc cập nhật công nghệ vũ khí với loại súng này vì thành công vang dội của nó trong cuộc chiến tranh chống Áo 1866[82]. Khiếm khuyết này của súng trường Kreyse được bù lại bởi loại pháo của hãng Krupp cỡ nòng sáu bảng (3 kg) đạn nạp hậu mà pháo binh Đức sử dụng. Pháo Krupp có tầm bắn xa hơn, tốc độ bắn nhanh hơn, và cũng chính xác hơn loại pháo nạp tiền của Pháp rất nhiều[72].

Tổng chỉ huy quân Phổ là vua Wilhelm I, với nội các gồm Bismarck - được xem là nhà chính trị vĩ đại và quyết đoán nhất của châu Âu thời buổi ấy[77] cùng với Roon và các chuyên gia quân sự khác. Các hoàng thân và sĩ quan thuộc giới quý tộc khác như Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy các đạo quân lớn. Trên thực tế, tất cả các chiến dịch đều được chỉ đạo bởi vị Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Von Moltke – một nhà chiến lược thiên tài[83].[24] Tiếng tăm của ông đã bắt đầu trở nên lẫy lừng từ khi ông đại thắng Đế quốc Áo trong cuộc Chiến tranh Áo – Phổ chỉ kéo dài có bảy tuần (1866).[84] Quân Phổ là lực lượng quân đội duy nhất ở châu Âu có Bộ Tổng Tham mưu mà hoạt động duy nhất là chỉ đạo hướng hành binh, tổ chức tiếp tế, liên lạc và triển khai chiến thuật. Các sĩ quan thuộc Bộ Tổng Tham mưu phải trải qua một quá trình tuyển chọn và huấn luyện khắt khe, thực hiện chức năng tương tự tại tất cả các bộ tham mưu chính yếu. Một Tổng Tham mưu trưởng trong Quân đội Phổ phải là một nhân vật quan trọng, vì ông ta là người duy trì sự liên kết tin cậy giữa chỉ huy và thuộc cấp[85]. Với một lực lượng Quân đội tinh nhuệ như vậy, Bismarck sẽ còn có thể tự tin hơn cả hồi năm 1866, rằng nước Phổ và các đồng minh nhất thiết sẽ chiến thắng cuộc chiến tranh này.[86]

Hoạt động của hải quân Pháp - Phổ

Hạm đội Pháp năm 1870

Khi chiến tranh bùng nổ, chính phủ Pháp hạ lệnh phong tỏa bờ biển miền bắc Đức, mà hạm đội Bắc Hải của Đức nhỏ yếu không thể kháng cự lại được. Dù vậy, cuộc phong tỏa không hoàn toàn thành công vì sự sơ suất của những nhà hoạch định kế hoạch tại Paris. Nhiều lính hải quân đáng lí ra phải sẵn sàng tham chiến khi chiến tranh nổ ra thì lại có mặt tại các ngư trường ở Newfoundland hay ở Scotland, nên nhân lực phía Pháp bị sút giảm. Vì lẽ đó mà chỉ một phần hạm đội Pháp gồm có 470 tàu, chỉ huy bởi Đô đốc Bouet-Villaumez xuất phát ngày 22 tháng 7 năm 1870. Chưa được bao lâu thì hạm đội Pháp bị thiếu than đốt trầm trọng, khiến Đô đốc Bouet-Villaumez hết sức lo lắng. Hải quân Pháp phong tỏa Wilhelmshafen nhưng không thành công, cộng với những mệnh lệnh rối rắm chỉ thị tiến về biển Baltic rồi lại hạ lệnh quay trở về Pháp khiến cho hoạt động của hải quân Pháp mất hiệu quả[87].

Để giảm sức ép của quân Đức mà người Pháp dự kiến sẽ đánh vào vùng Alsace-Lorraine, Napoléon III và bộ Tổng chỉ huy Pháp vạch kế hoạch mở cuộc đổ bộ đường biển đánh vào miền bắc Đức khi chiến tranh nổ ra. Họ hy vọng rằng cuộc đổ bộ sẽ không chỉ khiến người Đức phải rút bớt quân từ mặt trận về, mà còn sẽ kích thích quân Đan Mạch đông tới 50.000 người cộng với hạm đội đáng kể của họ tham chiến. Tuy nhiên người ta phát hiện ra là Phổ đã cho thiết lập một hệ thống phòng ngự bờ biển đáng gờm dọc theo các cảng biển chính miền Bắc Đức với các trận địa đại pháo Krupp có khả năng nã đạn vào chiến thuyền Pháp từ khoảng cách 4 000 thước. Hải quân Pháp không có loại trọng pháo hạng nặng có thể đương đầu với hệ thống pháo phòng thủ bờ biển của Phổ, trong khi địa hình bờ biển Phổ khiến việc đổ bộ là bất khả thi[88].

Hải quân Phápthủy quân lục chiến vốn được giao nhiệm vụ đổ bộ đánh vào miền bắc Đức, nay được thuyên chuyển tăng cường cho Quân đoàn Châlons, để rồi bị bắt sống trong trận Sedan cùng với Hoàng đế Napoléon III. Pháp thiếu nghiêm trọng sĩ quan, do phần lớn quân đội chính quy của Pháp bị bắt sống trong cuộc vây hãm pháo đài Metz và trận Sedan, nên buộc phải thuyên chuyển những sĩ quan hải quân từ chiến thuyền sang chỉ huy các đội quân gardes mobiles - vệ binh cơ động, hay các đơn vị quân dự bị[89].

Khi các trận bão mùa thu ở Biển Bắc làm hư hại các thuyền tuần tiễu còn lại của Pháp, cuộc phong tỏa trở nên ngày càng kém hiệu quả. Tới tháng 9 năm 1870, người ta phải bãi bỏ cuộc phong tỏa khi mùa đông tới, hạm đội Pháp rời về các cảng dọc theo eo biển Manche và ở lại đó cho tới khi kết thúc cuộc chiến[89].

Ngoài ra một số cuộc chạm trán lẻ tẻ giữa chiến thuyền Pháp và Đức cũng xảy tại các chiến trường khác, như cuộc phong tỏa bởi tàu Dupleix của Pháp với tàu của Hertha của Đức tại Nagasaki, Nhật Bản[90], và cuộc đấu pháo giữa tàu Meteor của Đức với tàu Bouvet của Pháp bên ngoài cảng La Habana, Cuba vào tháng 10 năm 1870[91].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Pháp-Phổ http://www.net4war.com/e-revue/dossiers/2empire/18... http://www.net4war.com/e-revue/dossiers/2empire/18... http://www.deuframat.de http://www.deutsche-schutzgebiete.de/dfkrieg.htm http://ml.hss.cmu.edu/courses/mjwest/Chapter_2_186... http://www.laguerrede1870enimages.fr http://www.loire1870.fr/index.htm http://www.omaha-beach.org/Travel/1870/1870-71.htm... http://books.google.com.vn/books?ei=QtMTT__WM6eTiA... http://books.google.com.vn/books?hl=vi&id=LH49AAAA...